Nên kiểm soát cân nặng và chế độ ăn trong thời kỳ mang thai
ThS. Nguyễn Thu Huyền, Phó trưởng khoa Đái tháo đường, Bệnh viện Nội tiết Trung ương cho biết, ước tính tại Việt Nam có tới 5,2% phụ nữ mang thai bị đái tháo đường. Đái tháo đường trong thời kỳ mang thai sẽ gây nguy hiểm cho cả mẹ và con, vì dấu hiệu của bệnh rất nghèo nàn và không đặc trưng nên sản phụ thường không chú ý. Tuy nhiên, nếu được phát hiện sớm, bệnh này hoàn toàn có thể kiểm soát được để đảm bảo an toàn cho cả mẹ và thai nhi.
ThS. Huyền cũng cho biết, thông thường những phụ nữ có nguy cơ đái tháo đường trong thời kỳ mang thai gồm những người đang mắc bệnh đái tháo đường hoặc đã từng mắc đái tháo đường thai kỳ trong lần mang thai trước, tiền sử sản giật, thai chết lưu, sinh con to trên 4 kg…Đặc biệt, việc thừa cân từ trước khi mang thai hoặc tăng cân quá nhanh trong thời kỳ mang thai cũng rất dễ mắc đái tháo đường. Bởi vậy, nếu có một chế độ ăn uống hợp lý và kiểm soát được cân nặng của mình và thai nhi thì sản phụ sẽ hạn chế được bệnh đái tháo đường trong thời kỳ thai nghén.
Để kiểm soát được cân nặng của sản phụ, BSCKI. Lương Thanh Bình, Trưởng khoa khám, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho biết, tốt nhất trong 9 tháng mang thai, sản phụ chỉ nên tăng 1/4 trọng lượng cơ thể so với trước khi có thai. Tức là nếu trước khi mang thai, phụ nữ có cân nặng 40 kg thì trong suốt thời kỳ mang thai nên tăng khoảng 10kg; nếu là 50kg thì nên tăng khoảng 12kg.
Để tránh bị đái tháo đường ở các bà mẹ mang thai, Viện Dinh dưỡng Quốc gia cũng khuyến cáo, mức tăng cân của bà mẹ mang thai trong thời gian 9 tháng lý tưởng nhất là từ 10-12kg. Trong đó, 3 tháng đầu tăng 1kg, 3 tháng giữa tăng từ 4-5kg và 3 tháng cuối tăng từ 5-6kg.
Phát hiện sớm để kiểm soát bệnh
Theo các bác sĩ, đái tháo đường ở phụ nữ mang thai rất dễ có những biến chứng thai sản. Sức khoẻ của người mẹ cũng bị đe doạ trước những biến chứng đái tháo đường. Đó là biến chứng võng mạc, bệnh nhân có thể bị nặng lên rất nhanh trong thời kỳ có thai, ảnh hưởng đến sức khoẻ của mẹ và con; biến chứng bệnh mạch máu lớn, vi mạch có thể làm giảm tuần hoàn nhau thai, đây là biến chứng đe doạ đến sự sống của thai nhi.
Ngoài ra, đối với bà mẹ không được chẩn đoán hoặc những bà mẹ đái tháo đường thai kỳ không được quản lý tốt có nguy cơ thai to và phải can thiệp khi sinh. Nguy cơ hạ đường huyết sơ sinh, vàng da, hạ canxi máu… làm tăng nhu cầu sử dụng phương tiện chăm sóc đặc biệt.
Bởi vậy, để phát hiện sớm nguy cơ bị đái tháo đường trong thời kỳ mang thai và kiểm soát được bệnh, các bác sĩ khuyến cáo, phụ nữ mang thai nên tiến hành làm các test sàng lọc và chẩn đoán đái tháo đường. Những người đã bị đái tháo đường trong thời kỳ mang thai phải tuân thủ chỉ định điều trị của bác sĩ.
Ngoài ra, chế độ ăn hợp lý và luyện tập cũng đóng vai trò quan trọng. Đối với sản phụ chưa mắc đái tháo đường trong giai đoạn thai kỳ thì nên có một chế độ ăn uống và vận động hợp lý, tránh tăng cân. Đối với sản phụ bị đái tháo đường trong thời kỳ mang thai nên chia chế độ ăn làm ba bữa chính và ba bữa phụ, lựa chọn những thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp, tránh ăn hoa quả quá ngọt, hạn chế ăn thực phẩm nhiều chất xơ và thức ăn nhiều chất béo, mỡ động vật. Đồng thời, hàng ngày nên tập thể dục đi bộ nhẹ nhàng. Phải đi khám thai định kỳ và đăng ký quản lý thai ở các cơ sở y tế.
Đặc biệt, những người bị đái tháo đường trong thời kỳ mang thai đã được kiểm soát, sinh con khỏe mạnh thì sau khi sinh 6 tuần vẫn cần quay lại cơ sở chuyên khoa để tầm soát lại bệnh. |